
Các đại biểu Quốc hội thảo luận tại tổ 6 về các dự án luật chiều 23/10 - Ảnh: VGP/TG
Tiếp tục chương trình làm việc của kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, ngày 23/10, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận ở tổ về 5 dự án luật: Luật Phá sản (sửa đổi), Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi), Luật Báo chí (sửa đổi), Luật Dân số và Luật Phòng bệnh.
Trong đó, Luật Dân số là một trong những dự án nhận được nhiều ý kiến góp ý sôi nổi, phản ánh sự quan tâm sâu sắc của các đại biểu đối với chiến lược dân số quốc gia trong bối cảnh mới.
Tại tổ 6 (gồm các đoàn Đồng Nai, Lạng Sơn, TP. Huế), đại biểu Phạm Như Hiệp (TP. Huế) cho rằng, một trong những thách thức lớn hiện nay là tỷ lệ vô sinh, hiếm muộn đang có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và quy mô dân số.
Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 1 triệu cặp vợ chồng vô sinh, chiếm khoảng 7,7% dân số, trong đó nguyên nhân có thể đến từ phía nam, phía nữ, hoặc cả hai.
“Trong khi một bộ phận xã hội ngại sinh con, thậm chí né tránh việc sinh đẻ, thì những cặp vợ chồng vô sinh lại vô cùng khát khao được làm cha, làm mẹ. Đây là vấn đề không chỉ về y học, mà còn tác động trực tiếp đến chính sách dân số và chất lượng giống nòi”, đại biểu Hiệp nhấn mạnh.
Ông Hiệp cho biết, hiện dự thảo Luật Dân số chưa có quy định cụ thể nào đề cập đến nhóm đối tượng này. Vì vậy, ông đề nghị coi vô sinh là một loại bệnh lý, để người bệnh được hưởng cơ chế hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước hoặc bảo hiểm y tế. Điều này vừa giảm gánh nặng tài chính và tinh thần cho người bệnh, vừa giúp hiện thực hóa khát vọng làm cha mẹ của hàng triệu gia đình.
Thực tế, chi phí khám, điều trị vô sinh hiện rất cao, trong khi bảo hiểm y tế chưa chi trả cho nhóm bệnh này. Quy trình điều trị kéo dài, phức tạp và tốn kém, từ khâu chẩn đoán đến hỗ trợ sinh sản. Ngay cả tại các trung tâm hàng đầu, tỷ lệ thành công chỉ khoảng 40-45% và càng về sau, tỷ lệ thành công càng giảm khi gặp các ca bệnh khó.
“Nếu được luật hóa, đây không chỉ là chính sách y tế, mà còn là chính sách nhân văn sâu sắc, góp phần trực tiếp vào mục tiêu nâng cao chất lượng dân số”, ông Hiệp nhấn mạnh.
Làm rõ quy định ưu tiên nhà ở xã hội cho người sinh đủ 2 con
Một trong những điểm nhận được nhiều ý kiến là chính sách ưu tiên nhà ở xã hội đối với phụ nữ sinh đủ 2 con, hoặc nam giới có 2 con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết.
Đại biểu Chu Thị Hồng Thái (Đoàn Lạng Sơn) cho rằng quy định này còn chưa rõ đối tượng áp dụng. Với phụ nữ sinh đủ 2 con, cần xác định độ tuổi cụ thể được hưởng chính sách hỗ trợ.
“Nếu đã khuyến khích phụ nữ sinh 2 con trước 35 tuổi, thì nên quy định rõ: Chỉ phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi mới được hưởng chính sách. Nếu dự thảo không quy định rõ thì phụ nữ đã lớn tuổi, con cái trưởng thành có được hỗ trợ không?”, bà Thái phân tích.
Bà cũng đề nghị làm rõ trường hợp “nam giới có 2 con đẻ mà không có vợ”, nếu người đàn ông đã ly hôn hoặc không trực tiếp nuôi con thì có được hưởng chính sách hay không?
Cùng băn khoăn này, tại Tổ 4 (gồm các đoàn Khánh Hòa, Lai Châu, Lào Cai), đại biểu Lê Xuân Thân (Đoàn Khánh Hòa) cho rằng, việc nâng Pháp lệnh Dân số lên thành luật là cần thiết, song ngôn ngữ và kỹ thuật lập pháp ở một số điều khoản cần chỉnh sửa để bảo đảm tính chặt chẽ, khả thi.
Ông đặt vấn đề: “Thời điểm xác định ‘sinh đủ 2 con’ là khi nào? Người đàn ông nuôi 2 con đẻ thì phải nuôi đến bao nhiêu tuổi mới được hưởng ưu tiên này?”.
Đại biểu Hoàng Văn Bình (Đoàn Lai Châu) cũng nêu thêm: “Vậy phụ nữ sinh 3 con có được hưởng không? Nam giới độc thân có con nuôi hợp pháp thì sao?”. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ nội hàm chính sách, bảo đảm công bằng và bao quát.
Đồng thời, đại biểu kiến nghị tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ 2 trở lên, nhằm khuyến khích sinh đủ 2 con và đảm bảo quyền lợi, sức khỏe của phụ nữ.
Liên quan đến chính sách duy trì mức sinh thay thế, đại biểu Hoàng Quốc Khánh (Đoàn Lai Châu) cho rằng, khuyến khích sinh đủ 2 con là chủ trương đúng, nhưng khi thực thi cần đảm bảo sự đồng bộ giữa các chính sách xã hội để tránh hiệu ứng ngược.
Ông dẫn ví dụ, hiện nay, theo Nghị định số 20/2021/NĐ-CP và Nghị định số 104/2022/NĐ-CP, trẻ em dưới 3 tuổi thuộc hộ nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được hỗ trợ 750.000 đồng/tháng. Đây là chính sách nhân văn, song thực tế ở một số địa phương, cử tri phản ánh rằng một bộ phận người dân hiểu chưa đúng, cho rằng "cứ sinh con là có tiền hỗ trợ", dẫn đến việc sinh nhiều con để hưởng chính sách.
“Hệ quả là nhiều gia đình sinh 4–5 con trong khi điều kiện kinh tế rất khó khăn, khiến gánh nặng y tế, giáo dục, xã hội tăng lên”, ông Khánh cảnh báo.
Do đó, đại biểu Hoàng Quốc Khánh cho rằng cần rà soát, điều chỉnh chính sách và tăng cường tuyên truyền, để người dân hiểu đúng, thực hiện đúng, hướng tới mục tiêu duy trì mức sinh hợp lý, nâng cao chất lượng dân số và phát triển bền vững.
Thu Giang