5 doanh nghiệp tư nhân “xếp hàng” làm đường sắt, Bộ trưởng kiến nghị gỡ rào cản

Theo Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh, nếu chỉ có Nhà nước đầu tư làm đường sắt mà không khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân thì sẽ rất khó triển khai.

Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 9, chiều 16/6, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật Đường sắt (sửa đổi).

Muốn đồng bộ các tuyến đường sắt lớn, cần rất nhiều cơ chế đặc thù

Tham gia thảo luận, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết, đường sắt tại Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, từ hơn 140 năm trước khi Pháp xây dựng tuyến Sài Gòn - Cần Thơ. Hệ thống đường sắt sau đó tiếp tục phát triển với việc xây dựng tuyến Bắc - Nam và một số tuyến khác hướng đi Hải Phòng, Lạng Sơn, Lào Cai ở phía Bắc trong những năm tháng chiến tranh.

Tất cả các dự án đường sắt này đều có công sức, công lao của các cán bộ, công nhân, kỹ sư người Việt, dưới sự giúp đỡ của các nước.

Bộ trưởng khẳng định: Đường sắt đã mang lại hiệu quả hết sức to lớn cho sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong những năm tháng chiến tranh và thời kỳ bao cấp. Khi đó, các phương tiện hàng không, đường thủy, đường bộ chưa phát triển, đường sắt chính là phương thức vận tải chủ lực, vận chuyển hàng hóa và kết nối các vùng miền.

5 doanh nghiệp tư nhân “xếp hàng” làm đường sắt, Bộ trưởng kiến nghị gỡ rào cản- Ảnh 1.

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh phát biểu tại họp tổ (Ảnh: Phạm Thắng).

Theo Bộ trưởng, cách đây khoảng 2-3 nhiệm kỳ, việc đầu tư đường sắt, đặc biệt là trục Bắc - Nam đã từng được Quốc hội bàn thảo, tuy nhiên chỉ dừng ở đó. Gần đây, hệ thống đường sắt có nhiều đổi mới, với sự xuất hiện của một số tuyến đường sắt đô thị ở Hà Nội và Tp.HCM, như: tuyến Cát Linh – Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội, Bến Thành - Suối Tiên.

Tuy nhiên, quá trình thực hiện các dự án này còn phụ thuộc lớn vào yếu tố nước ngoài, từ công tác đầu tư, huy động vốn, đến dây chuyền công nghệ. Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy như: kéo dài thời gian thi công, không đảm bảo tiến độ; các dự án bị đội vốn; mặt khác, khả năng cung ứng và làm chủ dây chuyền công nghệ gần như không có.

Chưa kể, mỗi dự án lại sử dụng công nghệ từ một quốc gia khác nhau (ví dụ tuyến Cát Linh - Hà Đông sử dụng công nghệ Trung Quốc, tuyến Nhổn - Ga Hà Nội sử dụng công nghệ của Pháp, tuyến Bến Thành - Suối Tiên sử dụng công nghệ của Nhật Bản). Điều này dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho việc cung ứng, thay thế, sửa chữa do đều phụ thuộc vào các nước.

"Thực trạng này cho thấy sự bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành. Đây là một trăn trở lớn của Bộ GTVT trước kia (nay là Bộ Xây dựng). Sau 50 năm giải phóng đất nước, chúng ta vẫn chưa thể tự chủ về khoa học công nghệ, chưa làm chủ được lĩnh vực quan trọng này.

Chính vì vậy, được sự đồng ý của Đảng và Nhà nước, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất nghiên cứu, sửa đổi toàn diện Luật Đường sắt để tháo gỡ những điểm nghẽn về pháp luật", Bộ trưởng nhấn mạnh.

5 doanh nghiệp tư nhân “xếp hàng” làm đường sắt, Bộ trưởng kiến nghị gỡ rào cản- Ảnh 2.

Luật Đường sắt 2017 cho thấy những hiệu quả tuy nhiên cũng bộc lộ nhiều vướng mắc làm giảm khả năng phát huy hiệu lực (Ảnh: PT).

Bộ trưởng Trần Hồng Minh cho biết thêm, hiện nay, hệ thống đường sắt tại Việt Nam gồm: đường sắt quốc gia (các tuyến liên tỉnh như tuyến Bắc - Nam, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng,…); đường sắt địa phương (như: đường sắt đô thị, các tuyến kết nối trong nội bộ địa phương hoặc giữa các địa phương lân cận).

"Quá trình tổng kết Luật Đường sắt 2017 cho thấy những hiệu quả tuy nhiên cũng bộc lộ nhiều vướng mắc làm giảm khả năng phát huy hiệu lực, hiệu quả của hệ thống đường sắt. Nếu triển khai đồng bộ các tuyến đường sắt lớn trong thời gian tới, cần phải có rất nhiều cơ chế, chính sách đặc thù. Đơn cử, tuyến Bắc - Nam cần 16 cơ chế, tuyến Hà Nội - Lào Cai - Hải Phòng cũng cần đề xuất cơ chế riêng để thực hiện.

Thay vì tháo gỡ theo từng dự án, chúng tôi đề xuất sửa đổi Luật Đường sắt để đưa tất cả các cơ chế này vào luật, tạo một nền tảng pháp lý thống nhất. Quá trình soạn thảo, dự án Luật đã được Chính phủ, Bộ Chính trị cho ý kiến và hiện đang được hoàn thiện sau khi được cơ quan có thẩm quyền của Quốc hội thẩm tra", Bộ trưởng nói.

Không khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia, sẽ rất khó triển khai

Về các thay đổi của dự án Luật so với hiện hành, Bộ trưởng cho biết, Luật cũ có 84 điều nhưng quy định quá chi tiết, nhiều nội dung không thuộc thẩm quyền của Quốc hội mà thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Do đó, dự án Luật sửa đổi đã lược bỏ 24 điều, còn khoảng 60 điều, tập trung vào những vấn đề cốt lõi.

Các nội dung chính được đưa vào dự thảo Luật sửa đổi gồm: Chính sách ưu đãi của Nhà nước về phát triển đường sắt, trong đó, quy định rõ tiêu chí, điều kiện cụ thể để thu hút các nhà đầu tư.

Bộ trưởng nhấn mạnh, nếu chỉ có Nhà nước đầu tư mà không khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân, sẽ rất khó triển khai.

Do đó, dự thảo Luật đã bổ sung các quy định về huy động nguồn vốn và phát triển kinh tế tư nhân, theo Bộ trưởng, hiện đã có 5 nhà đầu tư đăng ký tham gia các dự án đường sắt, do đó, cần có các cơ chế, chính sách tạo điều kiện để họ đầu tư hiệu quả.

Một nội dung mới khác được đưa vào dự thảo Luật đó là phát triển đường sắt gắn với mô hình phát triển đô thị (TOD). Bộ trưởng cho biết, đây là giải pháp quan trọng, thay vì chỉ thu hồi vốn từ tiền bán vé (có thể mất cả trăm năm), nhà đầu tư được phép khai thác quỹ đất tại các nhà ga, khu đô thị để tạo nguồn lực tái đầu tư. Việc này vừa giúp dự án có hiệu quả kinh tế, vừa giúp phát triển các đô thị văn minh, hiện đại.

Dự thảo Luật còn cải cách trình tự, thủ tục đầu tư, cho phép gộp một số bước, đơn cử như cho phép kết hợp giai đoạn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi với thiết kế kỹ thuật và bản vẽ thi công.

"Việc này có thể rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư cũng như tiết kiệm chi phí cho nhà nước", Bộ trưởng nhấn mạnh.

Đặc biệt, dự thảo Luật còn cho phép tách dự án giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập, tạo điều kiện cho dự án giải phóng mặt bằng thực hiện trước, giúp dự án có mặt bằng sạch trước khi thi công, đảm bảo việc triển khai không bị đình trệ do vướng mặt bằng.

Quan tâm đến chuyển giao công nghệ và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa lĩnh vực đường sắt, Bộ trưởng cho biết, dù là nhà nước hay tư nhân đầu tư, đều phải có lộ trình chuyển giao công nghệ. Trước mắt, các nhà thầu Việt Nam có thể đảm nhận toàn bộ phần hạ tầng dưới ray; về lâu dài, phải nghiên cứu sản xuất ray, toa xe, đầu máy, linh kiện, phụ tùng để tự chủ.

"Việc đưa các cơ chế, chính sách đặc thù vào một luật thống nhất sẽ tạo hành lang pháp lý vững chắc, giúp việc triển khai các dự án đường sắt trong thời gian tới được thuận lợi và hiệu quả hơn", Bộ trưởng Trần Hồng Minh nhấn mạnh.