
Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc báo cáo những nội dung chủ yếu về dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chiều 20/10, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc đã trình bày báo cáo những nội dung chủ yếu về dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, kế hoạch đầu tư công, vay và trả nợ công năm 2026 và giai đoạn 05 năm 2026-2030, kế hoạch tài chính của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Trung ương quản lý.
Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc cho biết, theo Chương trình kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội các tài liệu, báo cáo đầy đủ về đánh giá thực hiện ngân sách nhà nước năm 2025, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, kế hoạch đầu tư công, vay và trả nợ công năm 2026, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm 2026-2028, kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia, kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch vay và trả nợ công 05 năm 2026-2030 và kế hoạch tài chính của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Trung ương quản lý.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc trân trọng báo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu như sau:
Thứ nhất, dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, kế hoạch đầu tư công năm 2026 và giai đoạn 5 năm 2026-2030.
Một là, đánh giá thực hiện ngân sách nhà nước năm 2025.
Về thu ngân sách nhà nước: 9 tháng năm 2025 đạt khoảng 96,7% dự toán. Ước cả năm đạt khoảng 2.388,8 nghìn tỷ đồng, tăng 16,9% so thực hiện năm 2024, tăng 21,5% so dự toán giao. Chính phủ sẽ tiếp tục phấn đấu thực hiện vượt 25% so dự toán.
Về chi ngân sách nhà nước: 9 tháng đạt khoảng 63,1% dự toán. Ước cả năm đạt dự toán, phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch đầu tư công; đã bổ sung khoảng 116 nghìn tỷ đồng thực hiện các chế độ, chính sách cho người nghỉ việc do sắp xếp tổ chức bộ máy theo các Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP; dành đủ 3% tổng chi ngân sách nhà nước cho Nghị quyết 57-NQ/TW; cơ bản hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát; đã bố trí 10 nghìn tỷ đồng từ nguồn tăng thu ngân sách Trung ương năm 2025 và chủ động tiết kiệm chi để xây dựng các trường nội trú liên cấp ở vùng sâu, vùng xa, biên giới trong năm 2025; ...
Về bội chi ngân sách nhà nước: Ước cả năm khoảng 3,6% GDP, thấp hơn dự toán (3,8%GDP).
Hai là, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, kế hoạch đầu tư công năm 2026.
Thu ngân sách nhà nước đạt khoảng 2.529,4 nghìn tỷ đồng, tăng 5,9% so với ước thực hiện năm 2025. Trong đó, thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh tăng 11,1% và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 6% (tính cùng mặt bằng điều chỉnh chính sách các tháng cuối năm 2025), là mức phấn đấu cao hơn các năm gần đây.
Bội chi ngân sách nhà nước là 605,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 4,2% GDP. Trong đó, bội chi ngân sách Trung ương là 583,7 nghìn tỷ đồng, bằng 4% GDP và bội chi ngân sách địa phương là 22,1 nghìn tỷ đồng, bằng 0,2% GDP
Chi ngân sách nhà nước khoảng 3.159,1 nghìn tỷ đồng. Dự kiến phân bổ theo nguyên tắc ưu tiên chi đầu tư phát triển phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số; ưu tiên thực hiện các kết luận của Bộ Chính trị (trong đó bố trí đủ 3% tổng chi ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; đảm bảo thực hiện các đột phát phát triển giáo dục, các chính sách khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng và thi hành pháp luật...); ưu tiên các nhiệm vụ chính trị, tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, bầu cử Quốc hội và Đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ mới, quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội, các nhiệm vụ quan trọng cần thiết.
Trong đó, (1) chi đầu tư phát triển khoảng 1.120,2 nghìn tỷ đồng, bằng 35,5% tổng chi ngân sách nhà nước, gồm: 430 nghìn tỷ đồng đầu tư công của ngân sách Trung ương (trong đó, dự kiến: (1) các CTMTQG là 25 nghìn tỷ đồng, (2) các dự án thực hiện NQ 57-NQ/TW là 20 nghìn tỷ đồng, (3) còn lại bố trí cho các dự án chuyển tiếp đã bố trí NSTW trong giai đoạn 2021-2025; nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư, nhiệm vụ quy hoạch; các nhiệm vụ, đề án, dự án, công trình quan trọng giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045 thuộc dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV.); 40 nghìn tỷ đồng chi đầu tư phát triển khác của ngân sách Trung ương (như: xử lý bù giá dự án Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn, các nhiệm vụ hỗ trợ đầu tư, bổ sung vốn điều lệ một số ngân hàng) và 650,2 nghìn tỷ đồng chi đầu tư phát triển của ngân sách địa phương; (2) chi thường xuyên khoảng 1.808,9 nghìn tỷ đồng, bằng 57,3% tổng chi ngân sách nhà nước; (3) chi dự trữ quốc gia là 1,95 nghìn tỷ đồng; (4) chi trả nợ lãi khoảng 121,1 nghìn tỷ đồng; (5) chi viện trợ là 6,3 nghìn tỷ đồng; (6) dự phòng ngân sách nhà nước khoảng 100,4 nghìn tỷ đồng, chủ động cho các tình huống đột xuất, cấp bách phát sinh trong năm.
Thứ ba, dự kiến kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia, kế hoạch đầu tư công trung hạn 2026-2030:
Một là, đánh giá thực hiện 05 năm 2021-2025
Thu ngân sách nhà nước ước khoảng 9,6 triệu tỷ đồng, bằng 1,39 lần giai đoạn 2016-2020. Các chỉ tiêu về tổng thu ngân sách nhà nước, tỷ lệ huy động thu, huy động từ thuế, phí, tỷ trọng thu nội địa đạt kế hoạch; cơ cấu thu chuyển dịch theo hướng tích cực, bền vững hơn.
Chi ngân sách nhà nước ước khoảng 10,9 triệu tỷ đồng, vượt kế hoạch (10,26 triệu tỷ đồng). Bố trí nguồn chi đầu tư phát triển khoảng 3,4 triệu tỷ đồng (mục tiêu 2,87 triệu tỷ đồng), bằng 32-33% tổng chi ngân sách nhà nước (mục tiêu 28-29%); lũy kế giải ngân (trường hợp giải ngân kế hoạch vốn năm 2025 đạt 100% theo mục tiêu phấn đấu của Chính phủ) ước đạt 99,4% (trong đó, vốn ngân sách Trung ương là 1.107.850 tỷ đồng (tương ứng 90% kế hoạch), vốn ngân sách địa phương là: 1.918.647 tỷ đồngm tương ứng 106% kế hoạch). Đã cơ bản khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, số lượng dự án bố trí nguồn ngân sách Trung ương khoảng 4.652 dự án (trong đó số dự án khởi công mới là 2.340 dự án, trung bình vốn bố trí cho mỗi dự án khoảng 300 tỷ đồng), giảm 58% so với giai đoạn 2016-2020.

Chính phủ dự kiến giai đoạn 2026-2030 chi thường xuyên khoảng 10,6 triệu tỷ đồng, ưu tiên nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh... - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Chi thường xuyên khoảng 6,2 triệu tỷ đồng, dưới 60% tổng chi ngân sách nhà nước, đã thực hiện tăng lương, chi phòng chống dịch COVID-19, điều chỉnh một số chính sách xã hội cao nhất từ trước đến nay…
Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 3,1-3,2% GDP, thấp hơn mục tiêu đề ra. Nợ công, nợ chính phủ, nghĩa vụ trả nợ trong tổng thu ngân sách nhà nước trong phạm vi cho phép.
Kết quả: (i) đạt và vượt 12/12 chỉ tiêu chủ yếu, đảm bảo ổn định vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; (ii) Thể chế tài chính – ngân sách tiếp tục được hoàn thiện; (iii) Sửa đổi cơ chế phân cấp, đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, chủ động của các địa phương; (iv) Quản lý tốt công tác thu, chi ngân sách nhà nước, cả giai đoạn có khoảng 1,5 triệu tỷ đồng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi để bổ sung chi đầu tư phát triển, tạo nguồn thực hiện cải cách tiền lương; (v) đã miễn, giảm các khoản thu khoảng 400 nghìn tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp và người dân khôi phục sản xuất kinh doanh; (vi) tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng dần, bố trí vốn tập trung, trọng tâm, trọng điểm; đối ngoại, quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội được đảm bảo; (vii) Các chỉ tiêu về Nợ công được kiểm soát chặt chẽ và trong giới hạn cho phép.
Một số vấn đề đặt ra: (i) cần tiếp tục nâng cao chất lượng công tác dự báo; (ii) thu ngân sách nhà nước chịu tác động lớn từ nhiều yếu tố trong và ngoài nước; (iii) áp lực tăng chi ngân sách rất lớn, chưa làm tốt đánh giá tác động tới ngân sách nhà nước khi ban hành chính sách mới, còn tình trạng chậm giải ngân vốn đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia chậm; (iv) nhu cầu vay cho ngân sách có xu hướng tăng mạnh, việc đặt yêu cầu cụ thể về thời điểm và kỳ hạn phát hành Trái phiếu Chính phủ bình quân dẫn đến khó khăn trong điều hành và hạn chế phát triển thị trường vốn.
Hai là, dự kiến kế hoạch 05 năm 2026-2030
Căn cứ và nguyên tắc xây dựng: kết quả thực hiện giai đoạn 2021-2025; đột phá thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số và các chỉ tiêu theo dự thảo Văn kiện Đại hội XIV; đảm bảo an ninh, an toàn của nền tài chính quốc gia.
Thu ngân sách nhà nước khoảng 16,1 triệu tỷ đồng, gấp khoảng 1,7 lần giai đoạn 2021-2025. Tỉ lệ huy động thu ngân sách nhà nước khoảng 18%GDP. Tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu xác định ở mức phấn đấu cao hơn giai đoạn trước.
Chi ngân sách nhà nước khoảng 20,9 triệu tỷ đồng, gấp 1,9 lần giai đoạn 2021-2025.
Trong đó, chi đầu tư phát triển đầu tư phát triển khoảng 8,51 triệu tỷ đồng, bằng khoảng 40% tổng chi ngân sách nhà nước, gồm: 8,31 triệu tỷ đồng cho kế hoạch đầu tư công trung hạn và 200 nghìn tỷ đồng cho các nhiệm vụ chi đầu tư phát triển khác.
Nguyên tắc, thứ tự ưu tiên phân bổ theo Luật Đầu tư công, Kết luận 123-KL/TW của Trung ương, Nghị quyết số 70/2025/UBTVQH15. Trong đó: (i) Kiên quyết bố trí vốn ngân sách Trung ương tập trung, trọng tâm, trọng điểm, tổng số dự án sử dụng vốn ngân sách Trung ương không quá 3.000 dự án (không bao gồm dự án thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia và dự án thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số);
Ngân sách Trung ương tập trung bố trí cho các dự án hạ tầng chiến lược, có tính chất xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái; bố trí đủ vốn theo tiến độ của các chương trình, nhiệm vụ, dự án chuyển tiếp;
Đối với các dự án dự kiến khởi công mới, ưu tiên bố trí cho các dự án đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao, đường sắt kết nối quốc tế, đường sắt đô thị, dự án trọng điểm, liên vùng, liên quốc gia, quốc tế, các dự án có tính chất đột phá về phát triển khoa học công nghệ và phát triển KTXH, các dự án tại văn kiện Đại hội XIV,...
Chi thường xuyên khoảng 10,6 triệu tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 50,7% tổng chi ngân sách nhà nước, ưu tiên nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an ninh, thực hiện các chủ trương, kết luận của Bộ Chính trị, đảm bảo an sinh xã hội, chính sách tiền lương, phụ cấp, trợ cấp và các nhiệm vụ quan trọng, cần thiết.
Đồng thời, đảm bảo nghĩa vụ trả nợ lãi, chi viện trợ theo cam kết của Nhà nước; bố trí tăng cường tiềm lực hàng dự trữ quốc gia; bố trí dự phòng ngân sách theo tỷ lệ quy định (từ 2-5% tổng chi ngân sách mỗi cấp) và có mức tăng hợp lý hằng năm để chủ động nguồn cho các tình huống xảy ra đột xuất, bất ngờ.
Tiếp tục nâng cao vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương. Ngân sách Trung ương tiếp tục bổ sung cân đối, bổ sung có mục tiêu cho các địa phương và thực hiện các công trình, dự án quan trọng quốc gia, tạo nền tảng, động lực phát triển KTXH chung của cả nước.
Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 5% GDP, gấp khoảng 3 lần giai đoạn 2021-2025 về số tuyệt đối, dự toán hằng năm phù hợp khả năng huy động vốn và giải ngân đầu tư công.
Một số vấn đề đặt ra: Các chỉ tiêu tài chính - ngân sách đều tăng lớn so với giai đoạn trước, ở mức phấn đấu rất cao, trong khi tình hình thế giới còn nhiều biến động khó lường, cần phải có giải pháp dự phòng đảm bảo an ninh, an toàn tài chính và nâng cao năng lực thực thi, giải ngân, sử dụng hiệu quả vốn. Cần có cơ chế đánh giá, giám sát hiệu quả triển khai các chủ trương, chính sách mới ban hành, trong đó có nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nhu cầu huy động vốn cho ngân sách tăng khoảng 2,5 lần giai đoạn trước, cần đa dạng hóa đồng tiền vay, sản phẩm trái phiếu phát hành.
Thứ hai, kế hoạch vay, trả nợ công
Một là, tình hình vay, trả nợ công 05 năm giai đoạn 2021-2025: Các mục tiêu, chỉ tiêu định lượng do Quốc hội đề ra được bảo đảm nằm trong phạm vi Quốc hội cho phép.
Tổng mức vay của Chính phủ ước cả giai đoạn khoảng 2,5 triệu tỷ đồng, đạt 81,5% kế hoạch. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ ước cả giai đoạn khoảng 1,79 triệu tỷ, thực hiện hết kế hoạch. Ước cuối năm 2025 nợ công khoảng 35-36% GDP, nợ Chính phủ 33-34% GDP, nghĩa vụ trả nợ ở mức 19-20% tổng thu ngân sách nhà nước.
Hai là, dự kiến Kế hoạch vay, trả nợ công giai đoạn 2026-2030:
Nợ Chính phủ: Dự kiến huy động khoảng 6,55 triệu tỷ đồng, chủ yếu tập trung vào nguồn vay trong nước.
Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ khoảng 3,53 triệu tỷ đồng, trong đó: nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ khoảng 3,29 triệu tỷ đồng.
Dư nợ Chính phủ bảo lãnh cuối năm 2030 khoảng 390 nghìn tỷ đồng (tương đương 2-3%GDP).
Nợ Chính quyền địa phương: Tổng mức vay khoảng 621,1 nghìn tỷ đồng, dư nợ đến cuối năm 2030 khoảng 3-4%GDP.
Dự kiến cuối năm 2030 nợ công khoảng 41-42%GDP, nợ Chính phủ 38-39%GDP, nợ nước ngoài quốc gia 41-42%GDP.
Một số rủi ro chủ yếu: Việc tăng huy động cao có rủi ro thị trường trong nước không có khả năng hấp thụ; rủi ro về chi phí, thanh khoản, ổn định vĩ mô. Ngoài ra, còn có rủi ro về kinh tế vĩ mô; rủi ro trong tổ chức thực hiện; rủi ro từ Nghĩa vụ nợ dự phòng sẽ tác động đến an toàn nợ và khả năng trả nợ.
Thứ ba, tình hình thực hiện kế hoạch tài chính của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Trung ương quản lý năm 2025-2026.
Tính đến hết tháng 9/2025, tổng số quỹ hiện có là 18 quỹ (gồm: Quỹ Bảo hiểm xã hội, Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, Quỹ Bảo hiểm y tế, Quỹ Tích lũy trả nợ, Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, Quỹ Quốc gia về việc làm, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước, Quỹ Hỗ trợ phát triển hợp tác xã, Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá, Quỹ Hỗ trợ phụ nữ nghèo, Quỹ Phòng chống tội phạm trung ương, Quỹ Hỗ trợ nông dân trung ương, Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam, Quỹ Hỗ trợ phát triển du lịch, Quỹ Phòng chống thiên tai Trung ương).
Dự kiến số dư nguồn các Quỹ cuối năm 2025 khoảng 1.691,4 nghìn tỷ đồng (trong đó số dư của 03 quỹ do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý chiếm khoảng 92% tổng số dư), năm 2026 khoảng 1.781,3 nghìn tỷ đồng.
Để tăng cường quản lý và sử dụng các Quỹ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ, cơ quan quản lý đẩy mạnh việc rà soát, sắp xếp, đổi mới cơ chế hoạt động các Quỹ theo tinh thần Nghị quyết số 792/NQ-UBTVQH14, kiên quyết giải thể các Quỹ đã hết nhiệm vụ hoặc hoạt động không hiệu quả.
Trần Mạnh