
Bí thư Đảng ủy, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại phiên trù bị Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030 diễn ra trong bối cảnh cả nước đang nỗ lực thi đua phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2025 và 5 năm 2021-2025, sẵn sàng tâm thế vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc và vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Cùng cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn quân, Đảng bộ Chính phủ luôn đoàn kết, chung sức, đồng lòng, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, bản lĩnh, trí tuệ, khát vọng phát triển và tinh thần tiên phong, gương mẫu, đi đầu, góp phần thực hiện thắng lợi 2 mục tiêu chiến lược 100 năm mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã lựa chọn.
Đảng bộ Chính phủ hiện nay với 51 tổ chức đảng với hàng trăm nghìn đảng viên, là một đảng bộ lớn trực thuộc Trung ương được thành lập theo Quyết định số 243-QĐ/TW, ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng sắp xếp tổ chức bộ máy, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp mọi mặt của Đảng đối với các mặt công tác của Chính phủ với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp. Đây là bước phát triển mang tính chiến lược, vừa kế thừa, phát huy vai trò của Ban Cán sự đảng Chính phủ trước đây, vừa đặt nền móng cho sứ mệnh kiến thiết và quản trị quốc gia hiện đại trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ Chính phủ, nhất là về các quyết sách chiến lược, các trụ cột và động lực phát triển đất nước trong tình hình mới.
Nhìn lại nhiệm kỳ 2020-2025, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, vượt dự báo; nước ta chịu "tác động kép" của những tác động tiêu cực từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm, nhìn chung khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi; dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm hiện nay; Ban cán sự đảng Chính phủ, các Ban cán sự đảng các Bộ, ngành và 02 Đảng uỷ Khối và hiện nay là Đảng ủy Chính phủ đã kế thừa, phát huy những thành quả trước đây để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm, 12 nhóm giải pháp chủ yếu mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra; triển khai đồng bộ, toàn diện các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực; vừa tập trung giải quyết các nhiệm vụ thường xuyên; đồng thời ứng phó kịp thời, linh hoạt, phù hợp, hiệu quả với những vấn đề mới phát sinh với tinh thần nỗ lực vượt bậc, không lùi bước trước khó khăn, luôn đổi mới, sáng tạo để đưa ra các quyết sách "xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái"; đặc biệt trong 2 năm cuối nhiệm kỳ đã tập trung chỉ đạo tham mưu và thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quyết sách mang tính lịch sử của Đảng, Nhà nước về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp và các Nghị quyết của Bộ Chính trị tạo đột phá phát triển trong các lĩnh vực then chốt trong giai đoạn mới
Đoàn Chủ tịch Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025 - 2030 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Về công tác xây dựng Đảng, Ban cán sự đảng Chính phủ/Đảng uỷ Chính phủ đặc biệt quan tâm chú trọng, xác định rõ đây là động lực của đổi mới và là nhân tố quyết định, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành toàn diện, hiệu quả của Đảng bộ Chính phủ trong mọi mặt hoạt động. Công tác cán bộ có nhiều đổi mới, tập trung xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất ngang tầm nhiệm vụ. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được tăng cường; phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Công tác dân vận và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội được đổi mới theo hướng gần dân, sát cơ sở, nhất là dân vận chính quyền, dân vận của các cơ quan nhà nước; tăng cường dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường; nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm được xử lý nghiêm minh.
Về phòng, chống đại dịch COVID-19, với quan điểm xuyên suốt "đặt sức khỏe, tính mạng của Nhân dân lên trên hết, trước hết", "chống dịch như chống giặc", Ban cán sự đảng Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, phản ứng nhanh, kịp thời, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19; đẩy mạnh ngoại giao vắc-xin; triển khai quyết liệt, hiệu quả Chiến dịch tiêm chủng vắc-xin miễn phí toàn quốc lớn nhất trong lịch sử, đứng thứ 5 thế giới về tỷ lệ bao phủ vắc-xin; hỗ trợ khoảng 119 nghìn tỷ đồng cho trên 68,4 triệu lượt người lao động và trên 1,4 triệu lượt người sử dụng lao động gặp khó khăn; xuất cấp trên 23,3 nghìn tấn gạo; kịp thời xây dựng và triển khai hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch COVID-19, trong đó đã dành khoảng 175,5 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư từ ngân sách trung ương cho các dự án về kết cấu hạ tầng, y tế, công nghệ thông tin... Thành công vượt qua đại dịch COVID-19, Việt Nam trở thành điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong đại dịch, nhất là về bảo vệ sức khỏe nhân dân[2] và duy trì ổn định, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Về phát triển kinh tế, trong bối cảnh tình hình rất khó khăn từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban cán sự đảng Chính phủ/Đảng bộ Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Mặc dù liên tục chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh, đứt gãy chuỗi cung ứng, cạnh tranh chiến lược, xung đột; tăng trưởng, đầu tư, thương mại toàn cầu suy giảm; biến đổi khí hậu rất cực đoan; nhưng Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu kiên cường, khả năng phục hồi nhanh chóng và đạt tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu thế giới. Quy mô GDP tăng từ 346 tỷ USD năm 2020, xếp thứ 37 thế giới, lên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN; GDP bình quân đầu người gấp 1,4 lần, tăng từ 3.552 USD lên khoảng 5.000 USD, bước vào nhóm các nước thu nhập trung bình cao[3]. Lạm phát được kiểm soát ở mức thấp khoảng 4%/năm; xuất nhập khẩu tăng mạnh, quy mô thương mại thuộc nhóm 20 quốc gia dẫn đầu thế giới; duy trì xuất siêu liên tục nhiều năm. Thu NSNN giai đoạn 2021-2025 ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần giai đoạn 2016-2020 và vượt mục tiêu đề ra (8,3 triệu tỷ đồng); tổng số miễn, giảm, gia hạn các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, thuê mặt nước khoảng 1,1 triệu tỷ đồng; tổng số tăng thu, tiết kiệm chi của NSNN đạt khoảng 1,57 triệu tỷ đồng; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài và bội chi NSNN được kiểm soát tốt, thấp hơn nhiều giới hạn quy định, trong đó nợ công giảm từ 44,3% GDP năm 2020 xuống còn khoảng 35% năm 2025. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 17,3 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 33,2% GDP; tập trung khắc phục tình trạng dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư công; tổng vốn đầu tư công giai đoạn 5 năm 2021-2025 (bao gồm cả chương trình phục hồi và phát triển KTXH) đạt khoảng 3,4 triệu tỷ đồng, tăng 55% so với nhiệm kỳ 2016-2020; thu hút FDI là điểm sáng[4]. Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực. Các tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao công tác chỉ đạo điều hành, kết quả và triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam.

Việt Nam đã thể hiện sức chống chịu kiên cường, khả năng phục hồi nhanh chóng và đạt tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu thế giới.
Về các đột phá chiến lược, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Ban cán sự đảng Chính phủ/Đảng uỷ Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung thực hiện gắn với đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh với phương châm "thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh", góp phần tạo xung lực phát triển mạnh mẽ, mở ra không gian và cơ hội mới đưa đất nước cất cánh bay cao, vươn xa. Công tác xây dựng và thi hành pháp luật có sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy, cách làm với quyết tâm đưa thể chế từ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" thành "lợi thế cạnh tranh quốc gia"; nhiều vướng mắc, rào cản được tháo gỡ, khơi thông. Đảng ủy Chính phủ đã lãnh đạo tập trung xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành nhiều nghị quyết mang tính đột phá; trình Quốc hội xem xét, thông qua số lượng dự án luật, nghị quyết lớn nhất trong một nhiệm kỳ từ trước đến nay[5]; ban hành 820 Nghị định và gần 1.400 Nghị quyết của Chính phủ. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tập trung nguồn lực đầu tư, quyết liệt chỉ đạo thực hiện với tinh thần "vượt nắng, thắng mưa, không thua gió bão", "ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương", "3 ca, 4 kíp", "làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm", "xuyên ngày nghỉ, ngày lễ, Tết", "chỉ bàn làm, không bàn lùi" và đã đạt được những kết quả quan trọng; đến hết năm 2025 dự kiến sẽ hoàn thành 3.245 km đường bộ cao tốc và 1.711 km đường ven biển
Cần tiếp tục nỗ lực nhiều hơn nữa, quyết tâm cao hơn nữa, hành động quyết liệt hơn nữa để góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và tạo nền tảng vững chắc hướng tới mục tiêu chiến lược 100 năm thành lập nước vào năm 2045.
Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, Ban cán sự đảng Chính phủ/Đảng uỷ Chính phủ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong đó, đã ưu tiên bố trí nguồn lực và tiết kiệm chi, tăng thu để góp phần tăng chi cho quốc phòng, an ninh lớn nhất từ trước đến nay; đầu tư tự sản xuất được một số loại vũ khí quan trọng. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại vào năm 2030. Đối ngoại và hội nhập quốc tế là một điểm sáng; ngoại giao kinh tế đạt nhiều thành tựu to lớn; uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao; gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định và mở ra cục diện thuận lợi cho phát triển đất nước. Việt Nam đóng góp tích cực vào giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 195 nước, trong đó có quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 38 nước, bao gồm 5/5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 17 thành viên G20 và toàn bộ các nước ASEAN.
Bước vào nhiệm kỳ 2026-2030, tình hình thế giới dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt; kinh tế thế giới tiếp tục biến động mạnh, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ở trong nước, chúng ta tiếp tục gặp những tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài, những hạn chế, bất cập nội tại và những vấn đề an ninh phi truyền thống, dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh mạng… ngày càng nặng nề hơn. Nhìn chung khó khăn, thách thức tiếp tục nhiều hơn thời cơ, thuận lợi. Bối cảnh đó đòi hỏi Đảng bộ Chính phủ cần tiếp tục nỗ lực nhiều hơn nữa, quyết tâm cao hơn nữa, hành động quyết liệt hơn nữa để góp phần thực hiện thành công mục tiêu chiến lược 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và tạo nền tảng vững chắc hướng tới mục tiêu chiến lược 100 năm thành lập nước vào năm 2045.

Quyết tâm bứt phá vì đất nước giàu mạnh, phồn vinh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng được Trung ương xác định là khởi điểm của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong bài viết "Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới và những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc", đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: "chúng ta đang đứng trước thời điểm lịch sử, cơ hội lịch sử để phát triển nhanh, bền vững, song cũng đứng trước yêu cầu rất cao về sự đột phá mang tính cách mạng, khoa học, kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt trong mọi mặt của đời sống xã hội".
Quán triệt tinh thần chỉ đạo đó, Đại hội đại biểu Đảng bộ Chính phủ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 2025-2030 sẽ là dấu mốc chính trị đặc biệt quan trọng, khẳng định tầm nhìn, sứ mệnh và quyết tâm đổi mới toàn diện của toàn Đảng bộ để góp phần đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Đại hội không chỉ là sự tổng kết một nhiệm kỳ, mà còn mở ra hành trình hiện thực hóa khát vọng phát triển quốc gia, đưa Việt Nam tiến nhanh, vững chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng với phương châm hành động: "Đoàn kết kỷ cương - Dân chủ, đổi mới - Đột phá, phát triển - Gần dân, vì dân". Trong đó, "Đoàn kết, kỷ cương" là cơ sở, nền tảng - "Dân chủ, đổi mới" là nguyên tắc, phương pháp - "Đột phá, phát triển" là mục tiêu, yêu cầu - "Gần dân, vì dân" là tư tưởng dân là gốc, sức mạnh bắt nguồn từ Nhân dân để triển khai hoạt động của Chính phủ trong kỷ nguyên mới.
Đảng uỷ Chính phủ sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng Chính phủ liêm chính, hành động, kiến tạo phát triển, quyết tâm bứt phá, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc. Hiện thực hóa các chủ trương, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tự lực, tự cường, tự tin tiến mạnh trong kỷ nguyên phát triển mới. Xây dựng Đảng bộ Chính phủ vững mạnh toàn diện; bám sát 5 nguyên tắc xây dựng Đảng và 5 phương thức lãnh đạo của Đảng trong mọi hoạt động; đi đầu trong thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ đạo của Trung ương; xây dựng khối đoàn kết trong toàn Đảng bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, quản trị quốc gia là nhiệm vụ trọng tâm. Đặc biệt chú trọng công tác cán bộ là "then chốt của then chốt"; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo trong Đảng bộ Chính phủ thật sự tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, công tác cán bộ phù hợp với mô hình tổ chức, bộ máy, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phân cấp mạnh về thẩm quyền, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy và cơ quan, tổ chức hành chính, nhà nước. Đẩy mạnh công tác dân vận và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội sâu rộng, hiệu quả thực chất. Tăng cường, tổ chức thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng gắn với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Về thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, thực hiện 3 đột phá chiến lược, Đảng uỷ Chính phủ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong tất cả các lĩnh vực theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIV, các quyết sách đột phá của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Chính phủ lần thứ nhất. Tập trung phát triển kinh tế năng động, nhanh và bền vững; giữ vững ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; tăng trưởng GDP bình quân đạt 10%/năm trở lên; GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500 USD; phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, thuộc nhóm 30 nền kinh tế có quy mô GDP hàng đầu thế giới. Hoàn thiện thể chế phát triển, giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, tạo động lực mới thúc đẩy phát triển KTXH; phấn đấu đưa môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập mô hình tăng trưởng mới, lấy phát triển đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế sáng tạo, kinh tế tuần hoàn. Tập trung đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển mạnh nguồn nhân lực chất lượng cao theo chuẩn quốc tế, trong đó đào tạo 100 nghìn kỹ sư lĩnh vực chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI). Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; khai thác hiệu quả, mở rộng không gian phát triển mới; lấy đô thị làm động lực phát triển vùng; tập trung hoàn thành mục tiêu đến năm 2030 cả nước có 5.000 km đường bộ cao tốc, hoàn thành tuyến đường bộ ven biển; phát triển các dự án đường sắt tốc độ cao, hạ tầng giao thông đô thị, hệ thống cảng biển, cảng hàng không đồng bộ, hiện đại; tập trung nguồn lực đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng viễn thông, hạ tầng văn hóa, xã hội, trong đó xây dựng một số công trình văn hóa, thể thao, giáo dục, y tế mang tầm khu vực, quốc tế.
Về thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực quản trị quốc gia, chú trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội và phát triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, nhân cách, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực; tập trung nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và sức khỏe của Nhân dân; xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học. Bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả phát triển. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; thực hiện đồng bộ các giải pháp để xử lý cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường ở cả đô thị và nông thôn, nhất là ở những thành phố lớn. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ nhân dân; nâng cao năng lực quản trị xã hội, xây dựng hệ thống quản trị quốc gia hiện đại, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.
Về tăng cường, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại và hội nhập quốc tế, tiếp tục tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; giữ vững trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, trọng tâm là ngoại giao kinh tế, không ngừng phát huy và nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; gìn giữ môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Với phương châm khẩn trương cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành cơ chế, chính sách, nhiệm vụ, giải pháp, hành động cụ thể, kịp thời đưa Nghị quyết của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống, toàn Đảng bộ Chính phủ quyết tâm phấn đấu là lực lượng tiên phong, gương mẫu đi đầu trong triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIV của Đảng, nhất là về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nỗ lực cải cách thể chế, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương trên tất cả các lĩnh vực, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc./.
[1] Các Nghị quyết số 57, 59, 66, 68, 70, 71, 72 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, hội nhập quốc tế, xây dựng và thực thi pháp luật, phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển giáo dục đào tạo, y tế; đang tiếp tục hoàn thiện, trình Bộ Chính trị ban hành các nghị quyết về kinh tế nhà nước, phát triển văn hoá.
[2] Tỷ lệ tử vong do COVID-19 ở Việt Nam là 0,3-0,4%, thấp hơn nhiều so với trung bình thế giới (1,9-2%).
[3] Năm 2025, ngưỡng thu nhập trung bình cao theo Ngân hàng Thế giới (WB) là GNI bình quân đầu người lớn hơn hoặc bằng 4.600 USD.
[4] Tổng số vốn FDI đăng ký giai đoạn 2021-2025 đạt 185 tỷ USD, cao hơn giai đoạn 2016-2020 (170 tỷ USD).
[5] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành 88 luật, 02 pháp lệnh, 34 nghị quyết; nếu tính cả kỳ họp thứ 10 thì tổng số là 135 luật, 02 pháp lệnh, 42 nghị quyết, nhiều nhất từ trước đến nay.
[6] Vượt mục tiêu 3.000 km đường bộ cao tốc và 1.700 km đường ven biển theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII.
[7] Như các dự án Nhà máy Điện Sông Hậu 1, Thái Bình 2, BOT Vân Phong, Nghi Sơn 2, điện khí Ô Môn, mỏ khí Lô B, Đạm Hà Bắc, Đạm Ninh Bình và DAP số 2 - Lào Cai…